Kháng kháng sinh – Tại sao chúng ta phải quan tâm?

06/12/2023

Thuốc kháng sinh - thuốc - đã được phát triển để khắc phục dịch bệnh, ví dụ, nhiễm trùng do vi khuẩn có thể được điều trị bằng thuốc kháng sinh, nhiễm virus có thể được điều trị bằng thuốc kháng vi-rút, nhiễm ký sinh trùng có thể được điều trị bằng thuốc chống ký sinh trùng và các bệnh do nấm có thể được điều trị bằng thuốc chống nấm. Điều này cũng có nghĩa là thuốc kháng sinh không có tác dụng chống lại các bệnh do virus, ký sinh trùng hoặc nấm.

Gần đây, Skretting đã có bài thuyết trình tại Hội nghị Nuôi trồng Thủy sản của Vietstock nhằm nâng cao nhận thức về kháng kháng sinh, vì đây là mối đe dọa mới nổi đối với sức khỏe toàn cầu và để lập luận rằng nuôi trồng thủy sản đóng vai trò quan trọng. Nhiều quốc gia không xem xét nuôi trồng thủy sản trong các chương trình Một Sức Khỏe quốc gia để theo dõi và chống lại kháng kháng sinh. May mắn là Việt Nam làm được. Skretting sẽ giải thích kháng kháng sinh là gì, tại sao nó ngày càng gia tăng và chúng ta có thể làm gì với nó, đặc biệt là trong nuôi trồng thủy sản.
Lạm dụng kháng sinh

Xung quanh chúng ta có rất nhiều  sinh vật sống có kích thước rất nhỏ mà mắt thường không thể nhìn thấy được. Chúng sống trong cơ thể con người, trong tôm, cá, trong nước, trong đất và trong không khí, chúng được gọi là vi sinh vật. Các vi sinh vật phổ biến nhất là vi khuẩn, vi rút, nấm và ký sinh trùng. Tất nhiên, hầu hết các vi khuẩn đều có bản chất tốt, nhưng một số vi khuẩn có thể khiến con người họặc động vật bị bệnh.

Thuốc kháng sinh - thuốc - đã được phát triển để khắc phục dịch bệnh, ví dụ, nhiễm trùng do vi khuẩn có thể được điều trị bằng thuốc kháng sinh, nhiễm virus có thể được điều trị bằng thuốc kháng vi-rút, nhiễm ký sinh trùng có thể được điều trị bằng thuốc chống ký sinh trùng và các bệnh do nấm có thể được điều trị bằng thuốc chống nấm. Điều này cũng có nghĩa là thuốc kháng sinh không có tác dụng chống lại các bệnh do virus, ký sinh trùng hoặc nấm.

Tình trạng kháng thuốc xảy ra khi vi khuẩn/vi rút/ký sinh trùng hoặc nấm thay đổi để đáp ứng với việc sử dụng các loại thuốc này. Các vi khuẩn phát triển khả năng đánh bại các loại thuốc được thiết kế để tiêu diệt chúng. Vi khuẩn kháng thuốc sau đó sẽ tiếp tục phát triển và nhân lên. Điều quan trọng cần nhấn mạnh là chính vi khuẩn chứ không phải con người hay động vật trở nên kháng thuốc. Mặc dù tất cả các vi khuẩn đều có thể tiến hóa về khả năng chịu đựng, nhưng sự lây lan đáng báo động trên toàn cầu của vi khuẩn kháng thuốc đe dọa khả năng điều trị các bệnh nhiễm trùng thông thường của chúng ta. Vì vậy, tôi sẽ chủ yếu tập trung vào vấn đề kháng kháng sinh.

Nếu bạn thực hiện tìm kiếm trên Google về kháng kháng thuốc, những dòng tiêu đề khá đáng sợ sẽ xuất hiện. Mười triệu người có thể chết vì nhiễm trùng liên quan đến kháng kháng thuốc vào năm 2050, so với 8 triệu ca tử vong liên quan đến ung thư. Hãy so sánh điều đó với đại dịch Covid đã khiến thế giới đảo lộn với 7 triệu người thương vong’ trong năm 2020 và 2021.

Bạn có thể thấy một hình ảnh đáng sợ về một hộp sọ làm bằng những viên thuốc với tiêu đề “khi thuốc không có tác dụng” … Kháng kháng thuốc là một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với sức khỏe, an ninh lương thực và phát triển toàn cầu. Nó có thể ảnh hưởng đến bất kỳ ai, ở mọi lứa tuổi ở bất kỳ quốc gia nào. Nguyên nhân là gì?

Tình trạng kháng kháng sinh xảy ra khi vi khuẩn thay đổi và trở nên kháng với  các loại kháng sinh dùng để điều trị các bệnh nhiễm trùng do chúng gây ra. Do đó kháng kháng sinh lan rộng thông qua việc sử dụng quá mức và lạm dụng kháng sinh đối với sức khỏe con người và động vật. Vi khuẩn kháng thuốc được tìm thấy ở người, động vật, thực phẩm, thực vật và môi trường (trong nước, đất và không khí). Chúng có thể lây lan từ người sang người hoặc giữa người và động vật, kể cả thực phẩm có nguồn gốc động vật. Tình trạng Kháng kháng thuốc đã lây lan nhanh chóng trong môi trường nước.

Ở Việt Nam thuốc kháng sinh chiếm hơn 50% tổng lượng thuốc dùng trong y học cho người và là loại thuốc được bán nhiều nhất tại các nhà thuốc. Thông thường những loại thuốc này được mua từ các quầy thuốc mà không có chỉ định của bác sĩ. Một nghiên cứu tại các bệnh viện ở Việt Nam cho thấy 1/3 số bệnh nhân nội trú được dùng thuốc kháng sinh có chỉ định y tế không phù hợp khi nhập viện. Điều đó có nghĩa là không có vi khuẩn hiện diện hoặc đó là loại kháng sinh không phù hợp cho vi khuẩn đó. Tất cả những vấn đề này được biết là làm tăng nguy cơ  kháng kháng sinh.

Ở Việt Nam việc sử dụng kháng sinh khá phổ biến trong nuôi trồng thủy sản. 60% người nuôi cá và 24% người nuôi tôm sử dụng kháng sinh trong một chu kỳ sản xuất, chủ yếu là để chữa bệnh, nhưng cũng được sử dụng với mục đích phòng ngừa, điều này thực sự gây nguy hiểm vì kháng sinh được sử dụng không đúng mục đích điều trị trên các bệnh nhiễm khuẩn. Sự tăng trưởng của ngành nuôi trồng thủy sản đã dẫn đến sự gia tăng các vấn đề về bệnh tật, trong đó kháng sinh được sử dụng rộng rãi để giảm thiểu tổn thất trong sản xuất. Điều này cũng có thể làm tăng nguy cơ dư lượng kháng sinh (còn sót lại trong cá/tôm) góp phần gây ra kháng kháng thuốc. Nhiều quốc gia kiểm tra dư lượng kháng sinh trong hàng hóa nhập khẩu và là nguyên nhân chính > 20% các vụ từ chối nhập khẩu thủy sản của EU và Hoa Kỳ. Hàng Việt Nam thường xuyên bị từ chối và Việt Nam đứng thứ 4 khu vực Châu Á - Thái Bình Dương về tình trạng kháng kháng sinh. Hầu hết các bệnh viện ở Việt Nam đều có tỷ lệ kháng kháng sinh rất cao.

Hậu quả: Lạm dụng kháng sinh khiến việc điều trị không còn hiệu quả. Và các bệnh nhiễm khuẩn ở động vật, cá, tôm và con người trở nên khó điều trị hơn. Một mối đe dọa toàn cầu cho các thế hệ tiếp theo. Hãy tưởng tượng con cháu của bạn không còn có thể dựa vào thuốc kháng sinh nữa. Nguy cơ tổn thất kinh tế và tổn hại danh tiếng cũng có thể xảy ra: Cá và tôm chết cao hơn do thuốc kháng sinh không có tác dụng - đồng nghĩa với thu nhập ít hơn. Nếu một quốc gia được biết là lạm dụng kháng sinh, khách hàng có thể chuyển sang mua tôm từ các quốc gia khác hơn. Khách hàng châu Âu nhận thức được kháng kháng thuốc và bắt đầu yêu cầu các sản phẩm không chứa kháng sinh.

Cam kết của Skretting về giảm kháng sinh

Vẫn chưa quá muộn để chống lại kháng kháng sinh. Skretting đã cam kết hạn chế tính trạng kháng kháng sinh trong lộ trình bền vững của mình đến năm 2025. Chúng tôi sẽ góp phần giảm kháng kháng thuốc bằng cách sử dụng các loại thuốc kháng sinh có trách nhiệm. Mục tiêu của chúng tôi là gì:

  1. Không sử dụng kháng sinh để phòng bệnh.
  2. Việc sử dụng kháng sinh trên tôm cá phải được chẩn đoán chính xác là liên quan đến các bệnh nhiễm khuẩn vì nếu nhiễm trùng do vi-rút gây ra thì việc sử dụng thuốc kháng sinh là sự lãng phí tiền bạc và góp phần gây ra KHÁNG KHÁNG SINH.
  3. Một số loại kháng sinh cực kỳ quan trọng đối với sức khỏe con người (theo định nghĩa của WHO) và cần được lưu giữ, đồng thời chúng tôi khuyên bạn nên sử dụng những loại khác cho động vật.

Nhưng chúng ta không thể hành động một mình.

Có những lúc chúng ta cần phải sử dụng kháng sinh. Tất cả chúng ta đều biết điều đó. Kháng sinh liên quan đến năng suất và phúc lợi động vật. Động vật có “quyền” được chữa trị khi bị bệnh. Nhưng chúng ta cần giảm thiểu và sử dụng kháng sinh một cách có trách nhiệm hơn. Chúng tôi đã xác định 7 bước để sử dụng có trách nhiệm:

  • Bắt đầu bằng việc chẩn đoán để xác định bệnh do vi khuẩn bởi bác sĩ thú y hoặc chuyên gia sức khỏe cá,
  • Chuyên gia nên tư vấn về việc lựa chọn kháng sinh,
  • Người nông dân mua thuốc ở hiệu thuốc uy tín và đảm bảo nơi bảo quản an toàn,
  • Nhận được sự hỗ trợ của chuyên gia về tính toán liều lượng thích hợp,
  • Trộn cẩn thận với thức ăn và phủ dầu lên trên để giảm hiện tượng thất thoát,
  • Có chế độ cho ăn hợp lý nhằm đảm bảo cho vật nuôi điều được tiếp xúc với thức ăn
  • và cuối cùng là đảm bảo thời gian phục hồi trước khi thu hoạch để tránh tồn dư kháng sinh trong chuỗi thức ăn.
Nuôi trồng không có kháng sinh

Câu hỏi đặt ra là liệu việc nuôi tôm cá mà không sử dụng thuốc kháng sinh thì có được không?

 Đúng, mặc dù đây không phải là một nhiệm vụ dễ dàng, nhưng nó đã được thực hiện ở nhiều nơi trên thế giới trong chăn nuôi, chẳng hạn như chăn nuôi gà thịt, cũng như trong nuôi trồng thủy sản, nuôi cá hồi và tôm. Tuy nhiên, nó đòi hỏi một phương pháp quản lý sức khỏe phòng ngừa phức tạp, có tính đến thiết kế trang trại, các biện pháp an toàn sinh học nghiêm ngặt và thực hành chăn nuôi có kỷ luật, xem xét việc chuẩn bị nước và theo dõi chất lượng nước, lựa chọn thức ăn và cho ăn và cuối cùng là kiểm tra sức khỏe liên tục của vật nuôi.

Skretting Việt Nam đã phát triển một chương trình nuôi tôm bền vững như vậy đến các khách hàng của mình, đó là mô hình nuôi tôm SUCCESS được giới thiệu vào năm 2020. Chương trình SUCCESS hướng đến mục tiêu chung là tăng tỷ lệ thu hoạch thành công của nông dân một cách đáng kể từ mức trung bình ngành 60% lên > 80%, từ đó cải thiện lợi nhuận. Ông Cherdchai Thongchoo – Giám đốc Dịch vụ Kỹ thuật – là người tạo ra chương trình này cho biết hiện nay đã có hơn 80 trang trại cam kết thực hiện theo chương trình với những kết quả ấn tượng. Chương trình này là biện pháp an toàn sinh học tốt nhất để tránh sử dụng kháng sinh trong chu kỳ sản xuất, từ đó nuôi trồng không dùng kháng sinh.

Vi khuẩn gây hại (và các mầm bệnh khác) có thể xâm nhập vào trang trại nuôi tôm thông qua nước, không khí (động vật di cư: chim, cò,..), giai đoạn hậu ấu trùng hoặc con người. Tất cả các tuyến đường này phải được xem xét và bảo đảm trong chương trình an toàn sinh học. Hãy nghĩ đến việc khử trùng nước, lưới chắn, hàng rào, mái che, xét nghiệm tôm giống không chứa mầm bệnh và các biện pháp vệ sinh cho người lao động và nhà cung cấp.

Tuy nhiên, an toàn sinh học không bao giờ kết thúc ngay từ đầu: đó là khi phương pháp xử lý sinh học xuất hiện. Skretting có các công cụ để theo dõi chất lượng nước và sức khỏe tôm liên tục. Ông Joao Sendao – Giám đốc phát triển sản phẩm – là chuyên gia trong lĩnh vực này đã phát triển một loạt các sản phẩm xử lý nước - AOcare Probiotic, Mineral Balance & 3D - để khôi phục chất lượng nước và cạnh tranh hoặc ức chế vi khuẩn gây bệnh. Một dòng sản phẩm bổ sung sức khỏe khác – Relaxx, Santron, OptiPro và Stopat – có thể được thêm vào thức ăn nhằm tăng cường khả năng chịu đựng, chóng sốc giảm stress hiệu quả, bên cạnh đó còn giúp cải thiện sức khỏe đường ruột và sức khỏe tổng thể cho vật nuôi. Các chương trình đặc biệt đã được thực hiện để giảm nguy cơ nhiễm khuẩn trong suốt chu kỳ sản xuất.

Arjen Roem